Đức Phật tại thế, mọi người được sống
hạnh phúc bên cạnh bậc đại Đạo sư minh triết tuyệt vời, cho nên không cần đặt
ra vấn đề tìm hiểu về Phật. Nhưng khi Phật nhập Niết bàn, mọi người đều có
chung suy nghĩ rằng cần góp nhặt lời Phật dạy để truyền cho nhau tu hành. Trong
lần kiết tập đầu tiên, dĩ nhiên không thể trùng tuyên đầy đủ lời Phật dạy, cũng
như không được mọi người tán thành hoàn toàn. Thật vậy, những chứng nhân quan
trọng đã từng trực tiếp nghe Phật thuyết pháp như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên
đã nhập Niết bàn. Ngoài ra, lịch sử cũng ghi rõ đại đệ tử thuyết pháp bậc nhất
Phú Lâu Na và 500 Tỳ kheo không đồng ý với những gì được kiết tập. Họ đã đến
hang động khác để trùng tuyên lại.
Có thể nói vì trình độ hiểu biết của
mỗi người khác nhau, cho nên tuy cùng một lời dạy của Đức Phật mà lại nảy sanh
những nhận thức khác biệt. Từ đây, nhiều bộ phái Phật giáo được hình thành,
nhưng chung quy có hai bộ phái chính là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Tư tưởng
của Thượng tọa bộ truyền xuống phía Nam được tiếp nhận nguyên vẹn, vì nơi đây
nền văn hóa còn thấp. Ngược lại, tư tưởng Phật giáo của Đại chúng bộ từ Trung
Ấn lên Bắc Ấn, gặp ngay tư tưởng triết học có sẵn thuộc văn hóa Hy Lạp, Ai Cập,
La Mã. Thật vậy, sau Phật nhập diệt 400 năm, Alexandre chinh phục Ấn Độ và mang
đến tư tưởng Hy Lạp, một nền triết học lớn của nhân loại thời ấy. Chính trong
môi trường của văn minh Ấn kết hợp với văn minh Hy Lạp sản sinh ra tư tưởng
Phật giáo Đại thừa, tạo nên một cái nhìn mới về Phật giáo dưới dạng triết học.
Đại thừa Phật giáo, hay Phật giáo phát
triển chú trọng đến việc vận dụng tinh thần của kinh, diễn tả theo chân ý của
Phật bằng lối văn thời đại. Sách giáo lý diễn tả theo văn xưa không còn thích
hợp được thay bằng kinh điển Đại thừa có khả năng đương đầu với tư tưởng ngoại
đạo. Đó là chân tinh thần Phật giáo phát triển truyền bá đến nơi nào cũng tiếp
thu những nét sáng đẹp của văn hóa địa phương để phát triển tinh ba của địa
phương ấy. Sức sống của Phật giáo phát triển giống như dòng nước ngọt trôi chảy
đến mọi nơi, nuôi sống tưới tẩm đất đai cây trái xanh tươi.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng kinh
điển Phật giáo dù thuộc hệ Nam truyền hay Bắc truyền đều không phải ghi nhận
một cách chính xác trực tiếp từ lời nói của Đức Phật. Ý kinh thuộc về phần
thuyết giảng của Phật, nhưng văn kinh do người đời sau ghi lại. Mỗi khi thuyết
pháp, Đức Phật tùy theo căn cơ, trình độ, hoàn cảnh địa phương mà Ngài nói pháp
tương ưng khác nhau. Trong chúng hội, người nghe pháp trình độ không đồng, nên
sức tiếp thu và ghi nhận phải khác nhau là điều tất yếu.
Nội dung kinh tạng Nikaya thuộc hệ Nam
truyền bao hàm nền tảng căn bản giáo lý Phật Đà, với lối văn mộc mạc, bình dân,
cho nên dễ hiểu và dễ ứng dụng thực hành. Trong khi kinh điển Phật giáo phát
triển thì văn lý hàm chứa ý nghĩa sâu sắc và chải chuốt, thường triển khai các
loại hình thế giới siêu nhiên nhiều hơn, như kinh Hoa Nghiêm có đến 45.000 bài
kệ. Nhưng dù kinh tạng thuộc hệ Nam truyền hay Bắc truyền đều đề cập từ những
giáo lý căn bản như Tam quy, Ngũ giới, cho đến Tứ đế, Duyên khởi, Vô ngã, từ
những phương pháp xây dựng đời sống gia đình an vui, hạnh phúc cho hàng Phật tử
tại gia, đến các phương pháp tu tập diệt trừ phiền não và chuyển hóa tâm thức
để đạt được các Thánh quả cho hàng đệ tử xuất gia, v.v…
Theo dòng thời gian, đạo Phật tồn tại
và phát triển theo đà tiến hóa của nhân loại cho đến nay đã trải qua gần 26 thế
kỷ. Với chiều dài lịch sử gắn bó mật thiết với cuộc sống con người lâu xa như
vậy, Đại tạng kinh Phật giáo luôn luôn là kim chỉ nam cần thiết và có giá trị
tuyệt đối cho cuộc sống thương yêu, hòa bình, hạnh phúc, hiểu biết đúng đắn của
thế giới loài người. Thật vậy, lịch sử Phật giáo đã chứng minh rõ nét rằng theo
bước chân hoằng pháp độ sanh từ thời Đức Phật tại thế đến chư vị Tổ sư và cho
đến ngày nay, trải qua khắp năm châu bốn biển, không bao giờ có đổ máu, hận
thù, tàn phá, giết chóc, mà giáo lý Phật Đà chỉ xây dựng tình thương vô ngã vị
tha, lòng độ lượng và trí tuệ cho mọi người. Tình thương trong sáng và sự thật
muôn đời vẫn là những gì quý báu nhất cho mọi người, mọi xã hội. Vì vậy, xã hội
càng tiến bộ, mọi người càng nhận ra sự trong sáng của lòng từ bi, của đức
khoan dung và của sự hiểu biết đúng đắn theo tinh thần Phật dạy lưu lại trong
kinh điển Phật giáo.
Từ tinh thần tùy duyên, các bậc chân tu
đã ứng dụng những phương tiện độ đời một cách khéo léo, khiến cho đạo Phật toát
lên những màu sắc đa dạng. Người thì cho đạo Phật là một tôn giáo, vì đọc tụng
kinh Phật dạy, hay lễ lạy tôn tượng Phật, Bồ tát, họ đã tìm thấy được sự bình
an trong tâm hồn. Người thì cho đạo Phật là một hệ thống triết học cao siêu. Có
người tìm thấy đạo Phật là nền văn hóa cực kỳ quý báu của phương Đông, v.v… Có
thể khẳng định rằng đạo Phật bao gồm tất cả những yếu tố đặc sắc kể trên, mà
hơn thế nữa, giáo pháp Phật dạy còn vượt lên trên tất cả, vì đã chỉ dạy cho con
người phương pháp chấm dứt khổ đau, xây dựng được cuộc sống an lạc, tự tại ngay
đây và ngay bây giờ. Tuy có hình thức tôn giáo, nhưng đạo Phật không chấp nhận
sự lệ thuộc con người vào thần linh, mà trái lại coi con người là trung tâm
điểm có khả năng thăng hoa cuộc sống đến những tầng cao hơn, tốt đẹp hơn. Và
mỗi người đều có thể nương vào lời Phật dạy, để chuyển hóa phiền não, khổ đau
mà từng bước tạo cho mình cuộc sống an lạc ngay trong hiện tại, ngay trong cuộc
sống ở đây, chứ không phải chờ đến một kiếp xa xăm nào, ở cõi vô hình nào.
Tóm lại, trong kho tàng kinh điển Phật
giáo vô cùng đồ sộ, Đức Phật luôn chỉ dạy mọi người những phương pháp sống để
có được cuộc đời có ý nghĩa, bình an và sung sướng hơn. Từ đó, tạo ra một thế
giới hài hòa, hòa bình, an vui, hạnh phúc.
Với nền tảng mưu cầu hạnh phúc vì nhân
sinh và cho nhân sinh như vậy, giáo pháp Phật mãi mãi tồn tại song hành cùng
với con người và tỏa sáng giá trị văn hóa, trí tuệ tuyệt đỉnh cho nhân loại.
HT.Thích Trí Quảng
(NGUYỆT SAN GIÁC NGỘ SỐ 186/ Thư Viện
Hoa Sen)