Hôm nay, chúng ta tổ chức lễ cầu nguyện cho tất cả hương linh đã bỏ mình vì nhiều lý do; có người có mồ mả, có người được thờ cốt trong chùa, nhưng cũng có nhiều người không biết chết ở đâu và lúc nào.
Ban Tổ chức mời tôi giảng kinh để giải oan siêu độ cho những người đã chết và cầu an những người còn hiện hữu trên cuộc đời. Muốn làm được việc này, tất cả chúng ta phải hết lòng, nhứt tâm cầu nguyện thì mọi oan khiên của người quá vãng được giải cứu và người còn hiện hữu trên cuộc đời cũng được an lành. Đó là ý nghĩa quan trọng mà Thành hội Phật giáo chúng ta tổ chức lễ siêu độ nhân ngày vía Đức Phật Di Đà.
Tôi xin nhắc những người hiện hữu và các hương linh ở trong hư không lời Phật dạy rằng tâm thanh tịnh thì cảnh giới thanh tịnh, không nhứt thiết phải đang ở thiên đàng, Cực Lạc hay Ta bà.
Tuy nhiên, ở thế giới Cực Lạc của Phật Di Đà, tâm của Phật và Bồ tát, cùng Thánh chúng hoàn toàn thanh tịnh và thế giới đó được trang nghiêm bằng bảy báu. Vì vậy, nương vào tâm thanh tịnh của các Ngài ở thế giới thanh tịnh, chúng ta cũng dễ dàng thanh tịnh theo.
Còn chúng sinh ở Ta bà, tâm không thanh tịnh, mới tạo ra thế giới có nhiều loại hình khác nhau, có sáu đường chúng sinh và ở ngay trong thế giới này cũng có đủ tứ Thánh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Như Lai.
Thật vậy, nơi nào có Như Lai ra đời thì Tịnh độ Phật hiện ra. Nơi nào có Bồ tát dấn thân hành đạo, sen lòng của chúng ta được nở rộ. Nơi nào có Thánh Tăng, Thanh văn, Bích chi Phật thì liền hiện cảnh giới Niết bàn.
Vì thế, ở Ta bà, chúng ta có đủ Tịnh độ của Phật, Bồ tát, Niết bàn của nhị thừa và phước báo của chư Thiên, loài người. Nhưng chúng sinh vì oan khiên nghiệp chướng nhiều đời, ôm lòng uất hận quá sâu; nên địa ngục hiện ra với họ. Nghĩa là phải sống trong hoàn cảnh mà họ không bằng lòng được, cảm thấy bực tức, khổ đau. Cuộc sống quá đau khổ được coi là cảnh địa ngục trần gian. Cuộc sống thực tế của họ khổ đau như vậy, thì sau khi chết, họ vẫn mang tâm hồn u uất, bị dày vò khổ sở với sự uất hận ấy. Họ đang rơi vào cảnh địa ngục vô hình, địa ngục của tâm.
Cảnh địa ngục hữu hình ở thế gian dễ thấy và mọi người dễ nhận biết. Nhưng địa ngục nội tâm vô hình thì chỉ có một mình người khổ đau cảm nhận mà thôi.
Những người chết mà không thổ lộ và không hóa giải được nỗi niềm buồn khổ của họ sẽ rơi vào địa ngục vô hình. Nếu họ may mắn có được người thân biết tu hành, cúng dường, làm việc phước thiện hồi hướng cho họ; hoặc nhờ Thánh Tăng, Bồ tát giải oan khiên cho họ. Họ không còn cảm thấy u uất, khổ đau, oán hận, cũng được an vui, hạnh phúc ở cõi Trời.
Điển hình như mẹ của Mục Kiền Liên lúc sinh tiền sống giàu sang sung sướng; nhưng bà không bao giờ có tâm trạng sung sướng, an lành, vì những người thân cận không làm bà hài lòng. Vì vậy, khi qua đời, bà sinh vào ngạ quỷ, khổ sở vô cùng. Khi Mục Kiền Liên chứng sáu phép thần thông trong thiền định, ngài thấy được tất cả cảnh khổ trong sáu đường sinh tử và nỗi khổ của thân mẫu; nhưng không thể cứu bà khỏi cảnh ngạ quỷ. Nhờ Đức Phật còn hiện hữu trên cuộc đời, Ngài dạy Mục Kiền Liên lập đàn siêu độ, thỉnh chư Tăng chú nguyện. Nhờ đàn tràng và chư Tăng thanh tịnh, mới giải trừ được nghiệp cho bà, tức khắc bà liền sinh lên cõi Trời Đao Lợi. Đó là cảnh giới chư Thiên gần chúng ta nhất và ở đó có phước lạc lớn nhất mà loài người không có; vì tất cả chúng sinh và mọi thứ hiện hữu ở cảnh giới này được sinh ra do phước báo, do tâm an vui.
Vì vậy, ở cõi Trời có điều kỳ lạ là khi có tâm an vui, giải thoát thì cảnh giới đẹp hiện ra. Nhưng vì túc nghiệp còn sót lại, nên khi họ khởi lên ý niệm điên đảo, vọng tưởng, thì liền bị đọa xuống ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
Nghe điều này, chúng ta thường sinh nghi, có nên đến thế giới này hay không. Sinh ở thiên đường dễ, nhưng xuống cũng nhanh. Theo Phật dạy, thế giới này là thế giới của tâm thức, do tâm thức tạo ra; không phải thế giới vật chất.
Phật dạy rằng khi mời tất cả hoạnh tử cô hồn, tất cả những người chết trong đau khổ, chúng ta nên nhắc họ nhớ đến nửa bài kệ của kinh Hoa Nghiêm, thì họ liền an vui, cũng được sinh ở cõi Trời:
Nhược nhơn dục liễu tri
Tam thế nhứt thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhứt thiết duy tâm tạo.
Hiểu nửa bài kệ này thôi, rằng tất cả cảnh giới đều do tâm tạo ra, tạo thiên đường hay địa ngục cũng do tâm chúng ta. Giờ trước gặp bậc chân tu đức hạnh, Thánh Tăng đáng kính, hay người mà chúng ta quý mến, tâm được cởi mở, an vui, nghĩ đến việc tốt; trong khoảnh khắc đó chúng ta đang ở thiên đường. Thực tế điển hình như các Tỳ kheo sống cạnh Phật, dù cuộc sống đạm bạc, nhưng họ cảm thấy đầy đủ, là đầy đủ trong tâm thức, không ham muốn, không đòi hỏi, không thù nghịch. Trong lúc đó, họ đang sống ở Niết bàn, vì tâm thanh tịnh, an vui, giải thoát tạo cho họ có Niết bàn.
Nhưng nếu túc nghiệp hiện lên cũng trong khoảnh khắc, chúng ta đang an vui vụt nhớ đến bất hạnh trong quá khứ, đó là cái nghiệp quá khứ hiện ra trong lòng chúng ta; hoặc bất chợt thấy người mà ta không thích, lòng ganh tỵ, bực tức, đau khổ liền bộc phát, tự xóa mất tâm an vui, cảnh địa ngục, A tu la liền hiện lên cho ta.
Phật dạy rằng khi tâm chúng ta an vui được ví như mặt trời trí tuệ mọc, thì bóng tối khổ đau biến mất. Nhưng túc nghiệp hiện ra, giống như màn đêm phủ xuống, mây mờ che khuất ánh trăng, ánh sáng an vui không còn nữa. Sự trong sáng của linh hồn tạo cảnh giới thiên đường, sự đen tối của linh hồn tạo ra địa ngục.
Tôi quan sát thấy nhiều người phút trước rất hiền lành, nhưng phút sau gặp oan gia nghiệp chướng, tâm họ thay đổi hoàn toàn. Giờ trước là Phật tử dễ mến, nhưng giờ sau có thể trở thành A tu la và từ A tu la có thể rơi vào địa ngục. Trong một ngày, tâm thức của con người luôn thay đổi trong từng sát na, từng hơi thở, gọi là dạo chơi trong sáu đường sinh tử. Vui là thiên đường, khổ là địa ngục, giận dữ vô cùng là A tu la, ham muốn không được là ngạ quỷ.
Trong một ngày, con người thay đổi không biết bao nhiêu dạng hình của tâm lý, mà ngài Trí Giả đại sư lý giải rằng trong một niệm tâm chúng ta thay đổi đến ba ngàn lần. Nhận chân được trạng thái biến động của tâm linh hoạt như vậy, chúng ta theo Phật nghe pháp, luôn giữ tâm niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên.
Người giữ được sáu niệm này trong cuộc sống thì Phật dạy rằng họ sẽ thăng hoa tư cách từ người tiến lên quả vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật; không bị trở xuống ba đường ác. Vì thế, việc thực hành sáu niệm tâm này rất quan trọng trên bước đường tu của chúng ta.
Niệm Phật là nghĩ đến bậc thánh thiện, toàn giác. Nghĩ đến hảo tướng bên ngoài của Phật, cho đến lời nói, suy tư, việc làm và sinh hoạt nội tâm của một Đức Phật, thì chúng ta cảm nhận được sự an lạc vô cùng. Tu pháp môn Tịnh độ, niệm Phật, trong tâm chúng ta luôn có Phật hiện hữu, sinh hoạt. Tuy ngồi yên, nhưng Phật xuất hiện trong lòng chúng ta với tư cách một hài đồng rất dễ thương.
Tôi đã viếng thăm vườn Lâm Tỳ Ni hai lần. Cảnh bên ngoài hoang tàn, đổ nát; nhưng tôi cảm nhận được cảnh Phật ra đời có hoa Vô ưu nở rộ, chư Thiên chào đón và xuất hiện Bồ tát Hộ Minh cỡi bạch tượng sáu ngà đến, thấy hoàng hậu Ma Gia hào quang rực rỡ, từ cánh tay bà, Thái tử ra đời, có chín rồng phun nước, có bảy đóa sen đỡ bước chân Ngài, v.v… Quán tưởng như vậy, niệm như vậy, khung cảnh sáng đẹp tự xuất hiện trong lòng, cảm thấy an vui kỳ diệu. Tâm chúng ta đã đặt vào thế giới thanh tịnh rồi, là niệm Phật.
Hoa Vô ưu nở tiêu biểu cho tâm không lo buồn, sợ hãi, giận dữ, đó là cảnh thanh bình hiện trong lòng chúng ta ở bước đầu tiên niệm Phật. Người niệm Phật ở núi rừng, hay ở trong phòng, lúc đi kinh hành hoặc ngồi yên, cảnh này tự hiện trong tâm; không phải cảnh bên ngoài.
Nhưng nếu nương theo cảnh bên ngoài thanh tịnh thì tâm chúng ta thanh tịnh theo dễ hơn. Vì thế, chúng ta đến chùa lễ Phật, nghe pháp, thanh tịnh dễ. Trái lại, đến chùa gặp người không bằng lòng, thấy việc không thích, bực tức, khổ đau theo đó hiện ra trong tâm. Lúc đó, miệng họ niệm Phật, nhưng tâm niệm địa ngục, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ. Tâm họ đã ở trong ba đường ác, thì tướng ác cũng theo đó xuất hiện. Đó là điều cấm kỵ mà các Phật tử không nên phạm.
Niệm Phật, thấy Phật xuất hiện, thì Phật đang ở trước mắt, trong tâm ta và dõi theo từng bước chân đi của Phật, từng việc làm của Phật. Tướng hảo và tâm thanh tịnh của Phật in vào tâm ta, tác động cho tâm ta thanh tịnh theo và từng bước chúng ta cũng được hảo tướng.
Nhiếp tâm niệm Phật, thì gặp việc đáng giận sẽ không giận; vì đang niệm Phật, thấy Phật dễ thương, làm sao giận được. Còn người trước mặt, chúng ta có thấy đâu mà giận. Phật tử niệm Phật mà thấy người đáng ghét là đang niệm cái đáng ghét.
Ngài Trí Giả dạy rằng người sám hối, lạy Phật, niệm Phật đúng nghĩa, luôn thấy Phật, không thấy ma là bước đầu phải như vậy. Bước thứ hai, tâm họ an vui và hảo tướng hiện lần theo dấu chân Phật, thấy Phật thông minh siêu tuyệt và tâm hiền lành dễ thương, chúng ta cũng sáng suốt và hiền theo. Đó cũng là kinh nghiệm của tôi lúc tu học ở Nhật. Quan sát cuộc đời Đức Phật, thấy Ngài lúc còn bé, mới 7 tuổi đã thông suốt tất cả ngôn ngữ Ấn Độ, thấy Ngài thành tựu mọi việc khó làm. Tâm tôi tập trung vào Phật, và tập hiểu, tập làm theo Phật; nên tôi học đốt giai đoạn, chỉ trong ba tháng có khả năng thi đậu vào đại học. Niệm Phật, chúng ta được an vui và trí sáng ra là ý nghĩa nương Phật để phấn đấu bản thân chúng ta vươn lên, gọi là tu Bồ tát đạo. Thấy Phật không nói sai, không làm sai; chúng ta nỗ lực nói và làm giống như vậy, cuộc sống chúng ta cũng được tốt đẹp lần.
Phật Thích Ca ở Ta bà như chúng ta, nhưng từng bước, Ngài xóa lần trần lao nghiệp chướng. Trần lao nghiệp chướng rất nhiều, riêng tôi chỉ nhắm vào bốn việc cần phải xóa bỏ là lo lắng, buồn phiền, sợ hãi, bực tức. Gặp việc đáng buồn giận, lo sợ, chúng ta không buồn giận, lo sợ; vì nghĩ rằng chết là cùng. Nếu cuộc sống kéo dài lê thê, ảm đạm thì có ích lợi gì. Nhưng nếu chúng ta hiểu Phật pháp và đã làm được một số việc tốt, thì chết cũng không có gì phải sợ. Ở Ta bà mà xây dựng được Tịnh độ trong lòng chúng ta thì Tịnh độ này liền biến thành Tịnh độ thật ở Tây phương.
Mười phương Phật đều có Tịnh độ riêng, mà chúng ta khó về đó được. Vì tất cả thế giới Phật do tu đạo Bồ tát mới có được mạng sống ở đó. Nhưng tu Bồ tát đạo thì khó vô cùng, ít người làm được, nên ít người sinh về thế giới Phật được là vậy. Hoặc phải tu hạnh Phổ Hiền, được Phổ Hiền dẫn về thế giới của chư Phật mới được; nhưng hạnh Phổ Hiền nào có đơn giản dễ làm.
Thật vậy, thí dụ Phật dạy hành Bồ tát đạo, phải tu Tứ nhiếp pháp, nhưng có mấy ai làm được. Tất cả pháp tu của Bồ tát đều lấy bố thí làm đầu. Nhưng chỉ người có quyền thế mới có thể thực hiện hạnh bố thí vô úy, nghĩa là che chở được cho người bị oan ức; còn mình thấp cổ bé miệng làm sao can thiệp. Thứ hai là bố thí trí tuệ, chúng ta học hiểu đến đâu mà dạy được người. Biết những điều mà mọi người không biết mới làm thầy họ. Có trình độ tri thức hơn xã hội, trình độ tu chứng của người tu vượt hơn bình thường của thế nhân mới tu được pháp này. Thứ ba là bố thí tiền của thì phải có khả năng giúp người có cuộc sống vật chất ổn định và cao hơn nữa, giúp họ ăn nên làm ra, giàu có, sung sướng. Muốn tu Bồ tát đạo phải phát huy cuộc sống mình có đủ ba thứ : tiền của, tri thức và uy thế.
Nhưng riêng con đường sinh về thế giới Cực Lạc đơn giản hơn, theo lời Phật Thích Ca dạy chúng ta có thể về được; vì ứng vào nguyện của Phật Di Đà. Một trong 48 lời nguyện của ngài là trước khi lâm chung, nếu nhiếp tâm niệm Phật tối thiểu mười tiếng, không tán loạn thì Phật sẽ rước. Không làm gì cả, chỉ niệm mười danh hiệu Phật Di Đà thôi, có cái khó là tâm phải bất loạn.
Con nguyền lâm chung không
tán loạn
A Di Đà Phật rước từ xa
Quan Am cam lộ rưới trên đầu
Thế Chí sen vàng nâng đỡ gót
Trong khoảng sát na rời ngũ trược
Khoảng tay co duỗi đến Liên Trì
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp âm lòng sáng tỏ
Nghe xong liền ngộ Vô sanh nhẫn
Không rời An Dưỡng lại Ta bà
Khéo đem phương tiện lợi
quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự
Phật tử niệm Phật nhớ bài sám này suốt đời, nhớ lâm chung tâm không tán loạn, không nghĩ tất cả việc trên cuộc đời; chỉ nghĩ Phật Di Đà thì thấy ngài xuất hiện từ xa. Từ Tây phương cách đây mười muôn ức Phật độ, Phật Di Đà đi lần đến Ta bà. Thấy Phật như vậy, tâm chúng ta mới không tán loạn. Phật Di Đà rước từ xa, nhưng người đến gần chúng ta là người thương và lo cho chúng ta nhiều nhất là Bồ tát Quan Am đến trước an ủi, nhắc nhở, dặn dò chúng ta; vì Quan Am nguyện ở thế giới này. Bồ tát Quan Am cầm nhành dương liễu nhúng nước cam lồ, rải trên đầu chúng ta, thì chúng ta không thấy đau đớn, buồn phiền, khổ sở, tất cả nghiệp chướng đều tiêu tan, ác ma không khuấy nhiễu, thân tâm đều nhẹ nhàng, thanh tịnh.
Được như vậy, mới đủ điều kiện bước lên đài sen của Bồ tát Đại Thế Chí đưa cho. Đài sen này nhanh chóng bay thẳng về Cực Lạc cách đây mười muôn ức thế giới chỉ trong một chớp mắt. Chúng ta liền đến Liên Trì dự vào Liên Trì hải hội của Phật Di Đà. Vào ao thất bảo của Phật Di Đà, mới uống được nước bát công đức, nhờ đó tâm lượng Bồ tát của chúng ta mới lớn lần. Và tâm lớn thì sen nở, mới thấy Phật Di Đà, nghe ngài nói pháp; nghe xong liền chứng Vô sanh nhẫn và được ngài thọ ký.
Ở Ta bà chứng Vô sanh nhẫn khó vô cùng. Chứng Vô sanh nhẫn thì bị người nói xấu, đánh mắng, giết hại, chúng ta vẫn không hề chống trả. Thực tế cho thấy không ai làm được việc này. Vậy mà qua Cực Lạc, xuất hiện ở ao Liên Trì, tự nhiên chứng được Vô sanh nhẫn, tức phiền não, nghiệp chướng trần lao không phát sinh nữa, không có những tánh xấu.
Nghe tiếng pháp âm, lòng sáng tỏ. Ở đây nghe pháp suốt đời mà không sáng. Nhưng nghe Phật Di Đà nói một câu, sáng liền, ngộ Vô sanh nhẫn, tâm vẫn ở hội Liên Trì, nhưng hiện thân khắp nơi, đến với chúng sinh hữu duyên.
Vì vậy, người tu được vãng sinh Cực Lạc thì quyến thuộc của họ ở thế gian, hay người hữu duyên đồng lúc phát Bồ đề tâm, cảm nhận được người ấy đã vãng sinh. Người ấy vẫn ở thế giới Cực Lạc, nhưng hiện vào tâm chúng sinh, vào tâm của con cháu, tác động cho những người này phát tâm tu hành rất tốt.
Vì có giải tỏa nghĩa địa ở khu này, có nhiều người người khổ đau, oan ức đã qua đời, chúng ta mới lập đàn cầu nguyện giải oan cho họ và thuyết pháp, bố thí, cứu giúp cả người sống; đó là ý nghĩa lấy trần lao làm Phật sự.
Mong rằng những người có thân bằng quyến thuộc đã khuất tham gia đạo tràng này, nghĩ đến các hương linh, mời họ về nghe kinh, nghe pháp, để giải trừ oan khiên, được sinh về Cực Lạc và Phật tử hiện tiền cũng nương nhờ Tam Bảo lực, được an lạc, sáng suốt.
HT. Thích Trí Quảng
Nguồn: Giác Ngộ 259