Sự sống cũng như sự chết là việc lớn, hệ trọng của kiếp nhân sinh và cũng
từ thủa tạo thiên lập địa từ khi có con người trên hành tinh trái đất, để sinh
tồn con người phải đối phó với những đe dọa thường xuyên từ bên ngoài như thiên
tai, bão tố, động đất, thời tiết, dã thú, v.v song song với đó con người cũng
phải luôn luôn trực diện với ốm đau, bệnh tật phát sinh từ bên trong cơ thể. Ðây
là một trong bốn cửa ải đoạn trường của kiếp nhân sinh Sinh, Lão, Bệnh, Tử mà
bất cứ ai trong chúng ta dù già, trẻ, lớn bé đều phải trải qua. Ðời sống xã hội
loài người càng tiến bộ về khoa học, nhiều sáng tạo y học ra đời một số những
bệnh được xem như nan y thủa xưa như bệnh đậu mùa, bệnh bại liệt thì nay không
còn nữa, nhưng đồng thời nhiều bệnh trạng mới khác lại nảy sinh như các chứng
bệnh ung thư, bệnh AID mà vẫn chưa có phương thuốc chữa trị hoàn hảo. Vì thế làm
sao có được thân thể khỏe mạnh không ốm đau với tâm hồn an nhiên thư thái, giấc
ngủ ngon vẫn là vấn đề quan trọng cần thiết của đời sống con người.
Cách
đây hơn 2500 năm một nhà tôn giáo, nhà tư tưởng siêu việt, nhà Tâm Lý Học, nhà
Thiên Văn Học, nhà Xã Hội Học và cũng là nhà Y-sĩ đại tài vượt thời gian, không
gian đã nhìn thấy vấn đề, gốc rễ, nguyên nhân sinh ra bệnh tật, và cũng đã đưa
ra một toa thuốc để giúp con người vượt qua những đau khổ do bệnh sinh ra, xây
dựng một đời sống lành mạnh, một thân thể kiện khang, yêu đời, tràn ngập sức
sống, một xã hội an vui. Phải chăng đây cũng là mục đích sống con người trên
hoàn vũ hằng mong muốn và cũng chỉ chính con người là chủ thể sáng tạo tạo dựng
điều này không ai khác..
Vậy thì bệnh từ đâu mà đến? Theo Phật giáo bệnh
phần lớn phát sinh từ bên trong con người do mất cân bằng hài hòa về tinh thần,
tình cảm, dinh dưỡng có nghĩa do thân và tâm sinh ra hơn là do từ bên ngoài mang
đến. “Chẳng hạn có người uống thuốc mong đổ mồ hôi nhưng không có hiệu quả. Thế
mà khi sợ hãi âu lo thì mồ hôi tuôn ra, phải chăng là do tâm, do suy tư tác động
gây ra. Không có thí dụ nào rõ ràng hơn câu chuyện ngày xưa ở bên Trung Quốc đời
nhà Minh có ông Vi Ðản người viết chữ rất giỏi thế mà vì phải theo lệnh nhà vua
leo lên đỉnh đài Lăng Vân để khắc chữ , vì quá sợ viết xong lúc xuống mặt đất
tóc đã bạc phơ.” Một cách tổng quát theo Phật giáo có ba loại bệnh đó
là:
1. Thân bệnh
2. Tâm bệnh
3. Nghiệp bệnh
Từ cách
nhìn như nêu trên cho thấy cách chẩn bệnh và chữa trị của Phật giáo khác biệt
với y học tây phương ở điểm y học tây phương đưa ra thuốc chữa khi nào bệnh phát
ra, có triệu chứng đau yếu bộ phận nào đó trên cơ thể. Khi ấy thuốc chỉ có tác
dụng làm bớt đi tình trạng đau đớn, chặn đứng phần nào sự lộng hành của vi khuẩn
trong khoảng thời gian nào đó mà thôi, chứ nó không diệt hết căn nguyên, nguồn
gốc sinh bệnh. Một phần bệnh nhân có tâm lý là muốn mau hết bệnh ngay, nhưng ít
khi chịu tìm hiểu nguyên nhân sinh ra bệnh. Bởi vì bệnh phát sinh ra không phải
một sớm một chiều mà do quá trình dài qua bao năm tháng rồi mới hình thành. Do
đó không có triệu chứng không hẳn là không có bệnh.
Hơn nữa y học tây
phương phần lớn dựa vào những cái gì cụ thể, chẳng hạn như hình ảnh do tia quang
tuyến, những rọi chiếu qua các bộ máy y khoa chụp được. Nền y khoa hiện đại đổ
dồn rất nhiều công sức trí tuệ, tài chánh vào trong những lãnh vực nghiên cứu
như bệnh lý học, Dược phẩm học, Ðề kháng học và Giải Phẫu Học cùng những dụng cụ
y khoa hiện đại, tối tân trong mục đích tìm ra căn nguyên bệnh tật. Nhưng có
điều lạ nhiều máy móc tối tân phát minh ra đời, nhiều loại thuốc tinh vi mắc
tiền được điều chế ở những công ty dược phẩm nổi tiếng, thế mà số bệnh nhân
không giảm thiểu, mà còn có chiều hướng gia tăng. Lý do tại sao? Phải chăng có
những căn bệnh mà dụng cụ y khoa hiện đại vẫn không thể nhìn thấy được. Phải
chăng nền y học hiện đại quá chú trọng vào triệu chứng, vào phần thân thể, mà
quên đi phần tâm bệnh và nghiệp bệnh, quên đi hay xem nhẹ nguồn gốc sâu xa tạo
ra bệnh tật nằm ngay trong tâm tư đời sống con người. Bệnh phát sinh từ nghiệp
chướng từ lối nghĩ, cách tư duy, từ cách sống, lời nói, việc làm v.v. Có nghĩa
thân, khẩu, ý chưa được thanh tịnh. Ðây cũng là vấn đề mang tính chất thời đại
một số nhà thức giả phương tây đã đang cố thử tìm tòi tính chất tương quan giữa
niềm tin tôn giáo và sức khỏe.
Thân
Bệnh
Ðối với Phật giáo người đi tầm đạo hay hành giả việc
quan trọng trước hết là để ý đến thân thể “rèn luyện, thận trọng chăm lo thân
thể là điều căn bản trong việc tu hành Phật đạo. Hơn hết tất cả những gì khác,
bước đầu tiên mang tính chất quyết định giải phóng chúng ta, đó là thoát ra khỏi
ảo tưởng về bản ngã, đoạn tuyệt những cái quá si mê, quá yêu thương bản thân,
chấp trước vào thân thể, và phải luôn luôn để ý đến thân thể” . Nói cách khác
thường trực quan sát để ý thân thể đừng để cho có bệnh hoạn là điều tối ư quan
trọng của người tu hành, vì chính xác thân là phương tiện duy nhất để đi đến
giác ngộ.
Theo Phật giáo cơ thể con người nói riêng và toàn thể thiên
nhiên vũ trụ do tứ đại (Ðịa, Thủy, Hỏa, Phong) có nghĩa do đất, nước, gió và lửa
kết hợp thành. Mỗi thành tố mang ý nghĩa đặc biệt và có tương quan với những bộ
phận trong thân thể. Chúng ta hãy đi lượt qua tính chất mỗi thành tố
này.
1. Thành tố đất mang đặc tính nặng, có trọng lượng gồm có các bộ
phận như Não bộ, lá lách, bao tử. Khi thành tố này mất cân bằng sẽ sinh ra bệnh
làm thân thể trở nên khô gầy, có đến 101 loại bệnh thuộc thành tố này.
2.
Thành tố nước có đặc tính ẩm ướt, mang trạng thái lưu động, gồm có các cơ quan
như thận, bàng quang và máu huyết. Khi cơ quan này mất cân bằng làm cho việc ăn
uống không tiêu, việc tiêu hóa khó khăn, thì có thể sinh ra 101 loại
bệnh.
3. Thành tố hỏa mang tính chất nóng, dùng để đốt cháy, có nhiệt độ
cao, biểu tượng cho hệ thống vận chuyển máu, gồm có các cơ quan như gan và túi
mật, mất cân bằng thành tố này hay sinh táo bón, lạnh nóng bất thường, hay đau
khớp xương có thể sinh ra 101 loại bệnh.
4. Thành tố khí có đặc tính nhẹ
như không khí, biểu tượng cho hệ thống hô hấp, và đây cũng chính là chiếc xe đưa
trạng thái Tâm di động. Thành tố này chủ yếu hoạt động ở tim, phổi, ruột và hệ
thống não bộ. Thành tố này mất cân bằng sẽ sinh ra 101 loại bệnh. Khí có chức
năng tạo năng lượng di động khắp toàn thân, giúp cho máu vận chuyển điều hòa,
duy trì sự sống hấp thụ chất dinh dưỡng tiêu hóa thức ăn đào thải chất độc ra
ngoài, chuyển hoán tế bào, và giúp cho sự cảm nhận được trong
sáng.
Chính vì những đặc tính nêu trên, một khi sự vận chuyển bốn thành
tố không còn điều hòa khi có đó triệu chứng bệnh.
Nếu đi sâu vào phân
tích bệnh trạng triệu chứng thân bệnh chắc hẳn cần nhiều giấy mực hơn nữa, ở đây
xin chỉ lượt qua một số điểm quan trọng..
Thân bệnh phát sinh là do tích
lũy những chất độc bao gồm ý nghĩa tinh thần là tham, sân, si và ý nghĩa vật thể
là đem vào trong cơ thể những thức ăn hằng ngày không tốt cho cơ thể mà chúng ta
không biết hay không để ý vì do tập quán hay thói quen. Rồi theo dòng thời gian
những chất độc này không được đào thải hết ra ngoài tích lũy lại trong người và
khi đó bệnh hình thành. Có câu hỏi được đặt ra tại sao những chất độc đó không
tạo thành một loại bệnh? Câu trả lời là cơ thể mỗi con người chúng ta không ai
giống ai, có người yếu về bộ phận này nhưng lại mạnh về bộ phận khác, một phần
do yếu tố di truyền (genetic) từ cha mẹ truyền lại. Chất độc tụ lại trong người
chỉ sinh bệnh khi nó vượt quá giới hạn nào đó mà cơ thể không còn chịu đựng được
nữa mà thôi, cũng vì thế mà có người sinh ra bệnh về tim, về thận, về ruột vân
vân và vân vân.
Do đó một khi chúng ta nhận chân thấy được nguyên nhân
thân bệnh là do thiếu vận động, cẩu thả, bừa bãi trong việc ăn uống hằng ngày,
đó là dấu hiệu tốt trong việc cải tố cách dinh dưỡng, ẩm
thực.
Tâm Bệnh
Theo
Phật giáo “Bệnh hoạn nơi tâm hồn chúng ta phần lớn là do thói quen ôm vào những
cái không phải của chính mình như của chính mình. Bản tính con người chúng ta
hay giành lấy những gì có thể nhìn thấy hay sờ mó được trên thế gian này. Từ
những vật gọi là “của tôi” đi kèm theo nó là những trói buộc, từ đó con người
dần dần xa rời bản ngã chân thực, thay vào đó con người phải trả cái giá cho nó
là mang tâm trạng sợ hãi lo âu..”.
Khi nói đến tâm bệnh thì không thể nào
không đề cập đến ba thứ độc hại tham, sân, si là những thứ luôn luôn tiềm ẩn
trong con người chúng ta. Vậy thì những điều này gây ảnh hưởng như thế nào đến
sức khỏe cũng như bệnh tật. Chúng ta hãy thử tìm hiểu từng yếu tố
một.
* Tham
Theo ý nghĩa tinh thần cũng như vật
chất tham là trạng thái ham muốn thật nhiều vượt ra ngoài khả năng cũng như nhu
cầu cần thiết. Chẳng hạn như ăn quá nhiều cũng có khả năng sinh bệnh. Ðối với
những người hay ăn và uống những thức ăn ngọt có nhiều đường rất dễ sinh ra bệnh
tiểu đường hay ăn nhiều quá mà không vận động, tập thể thao cũng dễ sinh bệnh
mập phì. Ngoài yếu tố lấy vào trong thân thể quá độ nguồn năng lượng, chất ngọt,
người ta còn tìm thấy những người có nhiều ưu phiền, đau khổ tinh thần, căng
thẳng quá độ về công việc, đời sống gia đình v.v cũng dễ sinh ra bệnh này, không
kể đến yếu tố di truyền. Thêm vào đó mối ưu tư về tài chính do tiêu sài hoang
phí quá độ chồng chất theo năm tháng cũng dễ sinh ra bệnh.
Ngay như về
mặt tri thức, người quá tham lam muốn nhồi nhét thật nhiều kiến thức, sự hiểu
biết vào trong đầu trong khoảng thời gian ngắn cũng dễ sinh ra bệnh tâm thần.
Với những người còn quá trẻ tu thiền chỉ đọc qua vài quyển sách, một số lý
thuyết muốn thực hành để chứng ngộ ngay chưa hiểu rõ thấu đáo về ngay chính bản
thân cũng rất dễ sinh tẩu hỏa nhập ma rồi đưa đến hủy hoại thân
thể.
Ngoài ra chúng ta còn thấy những người sống buông thả chạy theo cảm
xúc của ngũ quan một cách quá đáng cũng dễ sinh bệnh. Theo Phật giáo người quá
đam mê vào hình tướng dễ sinh ra bệnh về gan, quá đam mê vào âm thanh dễ sinh
bệnh về thận, quá đam mê vào mùi vị dễ sinh bệnh phổi, quá đam mê vào khẩu vị dễ
sinh bệnh về tim và quá đam mê vào xúc giác dễ sinh bệnh thuộc về lá
lách.
Vì thế cân bằng trong đời sống không quá độ cả về tinh thần lẫn vật
chất là điều quan trọng trong tu hành theo Phật giáo.
*
Sân
Sân là trạng thái ghét cay ghét đắng, giận dữ một trong
những yếu tố gây tác động không nhỏ đến sức khỏe, nhất là cơ năng thuộc về tim
và gan. Trong kinh Ðại Bát Nhã (Mahaprajnaparamita) giảng rằng “sân hận là trạng
thái cảm xúc độc hại nhất so với tham lam và ngu si”. Sự giận dữ gây tác hại
vượt lên trên mọi tác hại khác. Theo kinh Ðại Bát Nhã trong số 98 đau đớn gây
ra, giận dữ là trạng thái khó chế ngự nhất. Về mặt tâm lý giận dữ cũng là tâm
trạng khó chữa trị nhất.
Theo bệnh lý học người khi nổi giận sẽ tác động
vào hệ thần kinh não, tạo mạch máu co cứng lại, đưa áp xuất máu tăng cao, từ đó
dễ làm tim ngừng đập bất thình lình. Trạng thái giận dữ có thể phát xuất từ
nhiều nguyên nhân như đời sống quá căng thẳng, cô đơn, ưu phiền, tâm trạng thù
địch, gặp nhiều điều không vừa ý, nhìn cuộc đời với tâm trạng chán chường v.v.
Cộng vào đó với tình trạng thiếu cân bằng dinh dưỡng, ăn quá nhiều chất béo, ít
vận động cũng dễ gây bệnh tim.
Theo y học Ðông phương nóng giận không chỉ
gây tác động đến tim còn ảnh hưởng xấu đến gan bộ phận thuộc về tạng và mật
thuộc về phủ.
* Si
Về mặt triết tự theo Hán ngữ
chữ Si thuộc về bộ Nạch có nghĩa tật bệnh, kèm theo với chữ “nghi” có nghĩa là
ngờ, lòng còn bán tín bán nghi chưa tin và theo Anh ngữ dịch là ignorance. Như
vậy Si là trạng thái bệnh hoạn thuộc về trí não, ở trong điều kiện chưa hiểu
thấu đáo, rốt ráo dễ rơi vào tâm trạng nghi ngờ, với trong hoàn cảnh nào đó cũng
có nghĩa là ngu dốt. Danh từ này thường hay dùng trong Phật giáo có nghĩa trạng
thái u mê, không sáng suốt. Khi con người rơi vào tình trạng đau ốm thì lại càng
thiếu minh mẫn, và không nhìn thấy căn nguyên của bệnh tật, vả lại tâm lý người
bệnh có khuynh hướng tìm phương cách chữa trị theo cách “mì ăn liền”, có nghĩa
làm sao hết đau, hết bệnh ngay. Từ đó dễ đưa đến hành động nông nổi có hậu quả
xấu cho sức khỏe. Nhân đây cũng nói qua về chủ trương tu thân của nho giáo,
người muốn tu thân phải làm cho tâm ngay thẳng, muốn cho tâm ngay thẳng cần phải
có Ý cho Thành, muốn cho Ý thành cần phải Trí Tri tức phải hiểu biết tường tận,
muốn hiểu biết tường tận cần phải tìm rõ nguồn cội sự vật. Ðây cũng là phương
pháp để thoát ra khỏi trạng thái Si.
Nền y học hiện đại có khuynh hướng
chú trọng vào cách chữa trị những đau đớn về thể xác, giải phẫu, thay ráp tim,
thận v.v, điều chỉnh các cơ năng dường như mang tính chất sửa chữa một bộ phận
nào đó trong một cỗ máy phức tạp, mà coi nhẹ căn bệnh có tính chất tâm lý, tình
cảm hay tinh thần, thiếu cái nhìn toàn diện. Cả hai đều đóng vai trò quan trọng,
tác dụng hổ tương lẫn nhau. Các nhà Y khoa đều công nhận rằng trạng thái nóng
giận, buồn bã, quá vui, quá buồn đều có tác dụng không tốt cho sức khỏe của thân
thể. Theo những nghiên cứu y-học cho thấy những người ở trong tình trạng giận,
buồn, không vui hay căng thẳng quá độ, não bộ tiết ra chất hormones gọi là độc
tố adrenaline, nếu không là adrenaline đi nữa cũng là những độc tố có hại cho cơ
thể. Do đó tình trạng mất thăng bằng về tình cảm kéo dài sẽ gây ra tai họa cho
cơ thể, đưa đến tình trạng càng thêm khó khăn cho việc chữa trị. Trong khi đó
cũng theo kết quả nghiên cứu khoa học, những người ngồi thiền định, hay trong
trạng thái thư thái, tập trung tư tưởng hệ thống não bộ tiết ra chất hóa học
giúp cho tâm hồn thật sự an bình, không còn căng thẳng, tiêu cực
.
Nghiệp Bệnh
Trước
hết chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa đích thực của nghiệp là gì? Nghiệp được dịch
sang từ tiếng Phạn gọi là karma, có ý nghĩa hành vi, tư tưởng của mỗi cá nhân,
từng con người trong tiền kiếp và hiện tại, từ đó hình thành con người ngày hôm
nay. Người Việt thường hay nói “gieo gió gặt bão” hay là “nhân nào quả đó” phản
ảnh phần nào quan niệm về “nghiệp”. Trong tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tàng” có câu
kệ sau:
“Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ
ý
Thị chư phật giáo”
Có nghĩa như sau:
Ðừng làm điều
ác
Hãy làm điều lành
Ý trở lên thanh tịnh
Ðó là lời dạy của
Phật
Với những lời kệ đơn giản vừa hàm ý khuyên bảo vừa nói lên điểm quan
trọng trong việc hình thành nhân cách, và cũng có thể gọi là nghiệp của mỗi con
người là ý tưởng. Ðiều gì mang tính chất quyết định hình thành con người? Ðó
chính là thân, khẩu và ý. Ðơn cử thí dụ, có người bày đặt chuyện dối trá người
khác. Nếu như câu chuyện không thật đó không gây tổn thương đến người nghe thì
cũng được đi, nhưng người nẩy ra ý tưởng, và nói điều đó ra đã tạo “nghiệp” cho
chính bản thân, và đó cũng là nguồn gốc hình thành nhân cách. Nhưng nếu câu
chuyện không thật đó gây tổn thương về mặt tinh thần hay vật chất đến người
nghe, chắc hẳn hành vi này hay “nghiệp” đã tác động không chỉ bản thân người nói
mà còn đến người nghe nữa. Nếu như mẫu chuyện đó tiếp tục ám ảnh cả người nói
lẫn người nghe, có nghĩa do từ ý nghiệp đưa đến khẩu nghiệp đã tác động đến
thân, và đó cũng là nguồn gốc của bệnh.
Trong “Chỉ Quán Tọa Thiền” có
viết “Nếu nghiệp tội là sát sanh thì gan và mắt bệnh. Nếu nghiệp tội do uống
rượu thì tim và miệng bệnh. Nếu nghiệp tội là dâm dục thì thận và tai bệnh. Nếu
nghiệp tội nói dối thì lá lách và lưỡi bệnh. Nếu nghiệp tội là trộm cắp thì phổi
và mũi bệnh.”.
Ðiều này nói lên tính chất tương quan mật thiết không thể
nào tách rời giữa thân, khẩu và ý. Trong ba thành tố hình thành con người, thành
tố ý là chủ đạo, là nguồn gốc để đưa đến lời nói, và sau đó là việc làm. Ðức
Phật cũng nêu thêm về yếu tố cha mẹ, tổ tiên, ẩm thực tức dinh dưỡng và tri
thức.
Về yếu tố phụ mẫu, vì có cha có mẹ thì mới có chúng ta, đây cũng là
cái ân cần phải báo đáp. Ngoài cái ân ra có những cái thừa hưởng từ cha mẹ, nói
cách khác đó là yếu tố di truyền. Yếu tố này vượt ra ngoài tầm tay, khả năng, ý
chí tự do lựa chọn của mỗi người, nó mang tính chất thụ động trong việc tạo dựng
nhân cách cũng như nghiệp.
Khi nói đến ý thức là phải nói đến ngũ uẩn tức
mắt, tai, mũi,miệng và cảm giác, có nghĩa chúng ta đã nhìn thấy cái gì, nghe
điều gì, ngửi mùi gì v.v. những cảm giác này gây thành ý thức và cũng từ đó tác
động đến yếu tố tạo thành con người. Khái niệm hình thành con người ngoài những
yếu tố trên, còn có thêm tính chất ý chí tự do trong cuộc sống và kèm theo đó
con người bị chi phối bởi quy luật nhân duyên, vô thường, vô ngã và nhân
quả.
Trong Kinh Pháp Cú có nói:
“Làm điều ác tự chính bạn trở lên
ô uế
Không làm điều ác, tự chính bạn trở lên thanh tịnh.
Tự mỗi
người chúng ta làm cho chính chúng ta trở lên thanh tịnh, hay trở thành ô
uế.
Không ai có thể làm người khác trở lên thanh tịnh.”
Từ câu
kinh trên cho thấy bệnh tật là do tự chính mỗi người chúng ta tạo thành chứ
không ai khác, có thể do túc nghiệp hành vi trong quá khứ, hay trong hiện tại.
Khi hiểu được nguyên nhân rồi, thì câu hỏi đặt ra là làm sao chữa trị căn
bệnh.
Tái Tạo Nguồn Sinh Lực
Bệnh tật sinh ra gồm nhiều yếu tố tùy
thuộc vào tình trạng sức khỏe thân thể, cách tư duy, lối sống, tập quán, nơi
sinh sống, môi trường xung quanh và còn phải kể thêm đời sống tâm linh, yếu tố
di truyền, ẩm thực cũng như văn hóa xã hội đang sống. Khi những yếu tố nội ngoại
mất cân bằng, mọi tình trạng quá độ, cuộc sống quá căng thẳng, âu lo cũng là
nguyên nhân sinh ra bệnh. Do đó chúng ta cần biết điều hòa, cân bằng những điều
nêu trên, nhìn một cách toàn diện tâm và thân, kèm theo phương pháp tu tập như
thiền định, điều tức hằng ngày, dinh dưỡng đúng đắn sẽ giúp phòng ngừa bệnh tật,
có cơ thể khỏe mạnh, đời sống lành mạnh, vui tươi.
Làm thế nào để có thể
điều hòa những yếu tố bên ngoài với mọi bộ phận bên trong cơ thể là cơ cấu cực
kỳ tinh vi, phức tạp không khác gì tiểu vũ trụ. Chẳng hạn tổng số chiều dài
những mạch máu trong cơ thể là 96 ngàn triệu kilometers, có nghĩa dài gấp hai
lần chu vi quả địa cầu. Ðiều này cho thấy cơ thể con người chúng ta cực kỳ vi
diệu mọi bộ phận từ bé cho đến lớn liên hệ chằng chịt lẫn nhau vượt ra ngoài sức
tưởng tượng bình thường. Chính vì lý do này hẳn nhiên phải có quy luật tự nhiên
về sự sống để phối hợp điều hành mọi cơ quan những vận chuyển trong lẫn ngoài cơ
thể .
Chúng ta tạm gọi quy luật tự nhiên đó là “sức sống” hay “sức sinh
tồn”, người Ấn Ðộ gọi là Prana, người Hy Lạp gọi là Pneuma, người Nhật Bản gọi
là Ki, người Trung Hoa gọi là Chi, và người Việt gọi là Khí. Nguồn “sức sống”
này di động đi khắp toàn thân, mọi mạch máu, mọi tế bào của mọi bộ phận cung cấp
dinh dưỡng, bảo vệ sự sinh tồn, tạo thành nguồn năng lực cho sự sống, và theo đó
nó toát hiện ra bên ngoài thân thể trên bộ mặt, làn da v.v. Về mặt tinh thần sức
sống mạnh làm nẩy nở những đức tính như can đảm, hy vọng, vị tha kèm theo lý
tưởng có mục đích trong đời sống. Do tính chất quan trọng của “khí” trong sự
sống mà trong y học Ðông phương có nói:” Huyết giống như nước, khí giống như
gió, nước di động là do sức đẩy của gió, huyết vận chuyển là do khí dẫn đi”. Quả
đúng như thế, máu có vận chuyển điều hòa được hay không là nhờ vào hồng huyết
cầu có cùng với oxygen từ phổi di động đến các tế bào một cách trôi chảy hay
không. Ðây là một chu kỳ tuần hoàn liên tục mãi mãi không ngừng nghỉ của Khí
cũng có thể nói là dòng sinh mệnh.
Ðể cụ thể làm thế nào nguồn năng lực
này sinh động điều hòa, Phật giáo đưa ra một số phương pháp tái lập cân bằng
thân tâm, dinh dưỡng được xem như những liều thuốc chữa trị trong mọi hoàn cảnh
đời sống.
Phật giáo rất chú trọng đến ẩm thực vì nó là nhu cầu cần thiết
hằng ngày để nuôi dưỡng thân thể, thanh tịnh hóa thân xác, và đó cũng là yếu tố
quan trọng hình thành con người, và cũng bởi vì chỉ có thân thể kiện khang mới
có đời sống hữu ích giúp người, giúp đời.
I.
Dinh Dưỡng
Thứ nhất phương pháp dinh dưỡng, người xưa
thường nói:”Tai họa do lời nói sinh ra, bệnh tật do thức ăn mang từ mồm vào.”
Hay trong kinh cũng có viết:”Khi ăn chúng ta phải tâm niệm thức ăn như những
liều thuốc. Ðừng ăn nhiều quá hay ít quá đều không tốt cho sức khỏe. Với lượng
ăn tiết độ đủ để nuôi dưỡng thân thể, đừng để đói, đừng để khát sẽ tránh được
bệnh tật.”. Người phương Tây cũng hay nói:”Tùy theo những gì bạn ăn, bạn sẽ là
như thế” (you are what you eat). Do đó cả đông lẫn tây đều công nhận chất dinh
dưỡng trong thức ăn đóng vai trò quan trọng tạo đời sống khỏe mạnh và trường
thọ. Theo Phật giáo để có thân thanh tịnh, chúng ta nên ăn nhiều thực vật bao
gồm ngũ cốc, rau, trái cây, bớt đi chất thịt động vật.
Nhân đây đơn cử
vài lợi ích của việc ăn nhiều chất rau đã được khoa học thực chứng, theo kết quả
nghiên cứu của Ðại Học UCLA, những người thường ăn rau, ngũ cốc lượng nguyên tố
Serotonin (5-hydraxytryptamine) tiết ra từ não bộ nhiều hơn những người ít hay
không ăn rau, trái cây, và nguyên tố này giúp cho tinh thần lạc quan, ít lo
lắng, không rối loạn và thư thái. Khi lượng nguyên tố này xuống thấp sẽ khiến
con người hay dễ thất vọng, chán nản, buồn rầu .
Ngoài ra theo kết quả
nghiên cứu của tạp chí The New England Journal of Medicine cho biết chất rau hay
những chất xơ (fiber) có tác dụng giảm, loại trừ chất estrogen trong người phụ
nữ giảm thiểu khả năng bị ung thư vú. Với chất rau (phytoestrogens) nhất là cà
chua giúp chống lại ung thư nhiếp hộ tuyến ở nam giới. Ðặc biệt loại rau súp lơ
xanh (Brocolli) có chất hóa học gọi là sulforanphane mang tác dụng tống những
chất độc trong máu và tế bào ra ngoài..
Hơn nữa thực phẩm dựa vào ngũ
cốc, rau, trái cây ngoài việc giúp cho sự tiêu hóa dễ dàng, còn giúp chống lại
tình trạng oxidant các phân tử trong tế bào, có nghĩa làm trẻ ra và sống
lâu.
II. Luyện Thân
Tâm
Thứ hai là phương pháp tu dưỡng tinh thần, có nghĩa
tu học Phật pháp, giáo lý giúp cho tư tưởng, ý nghĩ được thanh tịnh. Chúng ta có
thể thâu tóm trong tinh thần Lục Ba La Mật gồm có Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục,
Tinh Tiến, Thiền Ðịnh và Trí Tuệ.
Hạnh Bố Thí nuôi dưỡng tình thương nghĩ
đến người không may mắn, xấu số. Với đức tính này sẽ giúp và chữa trị cho lòng
tham.
Những người tu tại gia có một số giới luật căn bản như không nói dối,
không trộm cắp, không tà dâm, không sát sinh, không uống rượu. Nếu chúng ta tâm
niệm duy trì những giới luật này trong đời sống hằng ngày sẽ chữa trị căn bệnh
phạm pháp, cộng đồng, xã hội trở lên tốt đẹp và tâm hồn trở lên thanh tịnh. Hơn
nữa người tu tập Phật giáo phải thường xuyên “suy ngẫm về thân thể mình, từ gót
chân đi lên trên, từ tóc trên đầu đi xuống dưới, với lớp da bọc lấy thân thể đầy
rẫy những vật ô uế. Trong thân xác này gồm có: Tóc trên đầu, lông trên thân thể,
móng tay, răng, da, bắp thịt, khớp xương, tủy, thân; tim, gan, màng huyết thanh,
lá lách, phổi; Ruột, màng ruột, bao tử, vật bài tiết, óc; Nước mật, dịch vị, máu
mỡ, chất béo.” . Phương pháp quán tưởng này giúp chúng ta thấy cần phải tẩy uế,
thanh tịnh hóa xác thân tránh xa những ý tưởng có hại cho sức khỏe.
Hạnh nhẫn
nhục phát triển đức tính khiêm cung, nhã nhặn, khai mở lòng bao dung tha thứ từ
đó diệt trừ căn bệnh hận thù. từ đó giúp rất nhiều cho bộ phận gan.
Hạnh
thiền định quán tưởng được lý vô thường, mọi sự vật là Không, chữa trị tâm hồn
bất an, dao động, sẽ cảm thấy những cảm xúc tạo ra bởi ngũ uẩn là không thực.
Thiền định trong thế tĩnh giúp tăng cường sức khỏe đưa khí trời trong sạch
(oxygen) vào trong người đồng thời đưa những chất thán khí (carbon dioxide) theo
hơi thở ra ngoài. Ngoài ra chúng ta có thể thiền định trong thế động như Thái
Cực Thiền Dưỡng Sinh vận động toàn thân.
Hạnh tinh tiến giúp hành giả
nhủ lòng cái học cái biết ngày hôm nay có thể sẽ lỗi thời không còn phù hợp cần
phải thay đổi, chữa trị căn bệnh lười biếng, nỗ lực học tập tinh tấn không
ngừng, làm việc giúp người.
Hạnh trí tuệ nhận chân cái ngã chân thật bất
diệt, thường hằng là người cầm cương dẫn dắt năm con ngựa tức ngũ uẩn đi đúng
đường vượt qua những đoạn đường quanh co khúc khủy, mở đường khám phá cả thế
giới chân trời mới nằm đằng trước mặt, giải phóng ra khỏi những ảo tưởng, thoát
khỏi sự giam hãm do dục vọng tạo ra, chữa trị căn bệnh u mê, tăm tối đạt đến
cảnh giới tự do tự tại.
Nói chung con người phiền não, đau khổ, thất
vọng, chán chường, bất an, trống rỗng là vì có khuynh hướng hướng ngoại, phân
biệt ta và người, hằng ngày nhìn trong gương thấy ta khác người, nhìn cái giả
cho là thật. Ngay chính thân xác của chúng ta thay đổi từng giây từng phút, mỗi
khoẳng khắc là hằng triệu tế bào chết đi, đào thải và hằng triệu tế bào mới sinh
sản ngay trong cơ thể. Vì thế cần phải đẩy lui những phiền não, không thật ra
ngoài để thăng hoa trở lên an vui thanh thản hạnh phúc trở về với chân ngã, là
những cái nằm bên trong con người chứ không ở đâu khác. Khi con người rơi vào
tình trạng u mê, vô minh, vọng động thì Phật giáo đề xuất phương cách giải quyết
là quán tưởng cái lý vô thường của vạn vật, có nghĩa không quá đam mê và chấp
trước hay bám víu vào nó. Vì mọi vật đều theo lý nhân duyên, nhân quả mà kết hợp
thành và rồi cũng theo đó mà tan đi giống như cát bụi trở về cát bụi. Mọi hiện
tượng xuất hiện trên thế gian này ngày hôm nay rồi sẽ biến mất đi nay mai, không
một sự vật nào tồn tại mãi mãi. Vậy tại sao chúng ta bám víu vào nó để rối đau
khổ và sinh bệnh. Một vị cao tăng đời nhà Minh bên Trung Quốc, Hàn Sơn Thập Ðắc
đã nói:”Không một ai sinh ra trên cõi đời này để già, bệnh và chết thay cho bạn.
Những đau khổ này chính bạn phải nhận lấy. Mọi đắng cay ngọt bùi của cuộc đời
phải tự chính bạn trải qua mà thôi.” Do đó tự mỗi người phải tự chính mình tỉnh
thức, hiểu rõ căn nguyên sự vật để làm sao sống một đời sống không ốm đau bệnh
tật.
Từ cổ chí kim, Ðông cũng như Tây không một ai phủ nhận sức mạnh tinh
thần trong việc chinh phục bệnh tật, duy trì sức khỏe, thăng hoa đời sống nội
tâm và thành công trong cuộc đời. Người phương Tây thường hay nói “Bạn nghĩ gì
bạn sẽ là như thế” (As you think, you become), nói lên sức mạnh vô song của tinh
thần. Với sức mạnh gì Armstrong vô địch liên tục sáu lần đoạt giải quán quân huy
chương vàng vòng đua xe đạp Tour de France song song với đó đã phải khắc phục,
chiến thắng căn bệnh ung thư hằng ngày công phá cơ thể anh. Với đức tin nào mà
những nhà sư chỉ với manh áo thô sơ có thể chịu đựng cái lạnh như cắt ở vùng núi
Hy Mã Lạp Sơn quanh năm tuyết phủ. Với ý chí nào đã giúp con người Abraham
Lincoln vượt qua bao chông gai thử thách cuộc đời xuất thân trong gia đình
nghèo, mẹ mất sớm, không có tiền đi học phải làm đủ mọi nghề để mưu sinh, vừa
làm vừa học, có lúc rơi vào cảnh tuyệt vọng, gia tài khánh tận. Cuối cùng với
niềm tin sắt đá vào lý tưởng ông đã đắc cử trở thành vị Tổng Thống thứ 16 của
Hợp Chủng Quốc, người đầu tiên tuyên bố giải phóng nô lệ, dù sau bao nhiêu lần
thất bại trong những cuộc tranh cử vào tòa nhà Quốc Hội. Niềm tin, tinh thần lạc
quan đóng vai trò không nhỏ trong đời sống.
Nếu khi chúng ta nhận biết và
hiểu rõ lý vô thường của sự vật, về ngay chính con người mình với những thói hư,
tật xấu cần phải thay đổi, những biến hóa thay đổi liên tục không ngừng từ thể
xác cho đến tâm hồn, phân biệt được cái ta tạm thời và cái ta vĩnh cửu, bất diệt
và những nỗi đau khổ không thể tránh được trên cuộc đời này với tâm bình thản là
khi chúng ta đã có được liều thuốc thần dược, niềm hạnh phúc bất tận. Khi ấy
chúng ta có khả năng điều chỉnh những nỗi cảm xúc, dằn nén cơn nóng giận, biết
tha thứ cho tha nhân, tâm hồn trở nên trong sáng, tăng sức mạnh nội tâm, nguồn
năng lực sống, có cái nhìn lạc quan, tin tưởng về cuộc đời. Khi ấy chúng ta biết
cách giải quyết một cách ổn thỏa những dao động và từ đó cơn bệnh cũng sẽ giảm
từ từ. Một người thực sự khỏe mạnh là người tràn ngập sức sống, năng động, yêu
đời, yêu người và cũng từ đó toát ra một vẻ đẹp tự nhiên qua khuôn mặt. làn da
và cả nụ cười.
“Thân Tâm Nhất Như” tâm hồn và thể xác tuy hai mà một là
tư tưởng trị liệu căn bệnh toàn diện hữu hiệu, là chiếc xe, đôi cánh đưa con
người đến chân trời hạnh phúc, trường thọ thiếu một trong hai thứ trên không thể
nào đạt được điều mong muốn. Tâm hồn là cái trường cửu mãi mãi cần phải đi đôi
với cái “đại ngã” chứ không phải cái tôi nhỏ bé. Có nghĩa để cho “Tâm” đạt đến
cảnh giới bất tử chúng ta cần phải thăng hoa cái “Thân” nhỏ bé như hạt cát trong
biển cả vào cảnh giới thanh văn, bồ tát, khai mở tiềm lực vô hạn nằm sâu trong
tiềm thức, vượt qua những ảo tưởng, dục vọng thế gian, và những trạng thái bất
an, lo lắng, sợ hãi từ từ biến mất không còn nữa.
Một khi chúng ta áp
dụng những nguyên tắc chữa trị y học theo Phật giáo thì lòng tham sẽ thay thế
bằng tâm bố thí, giận dữ thay thế bằng tình thương, u mê thay thế bằng trí tuệ.
Khi ấy mọi bệnh tật sẽ tiêu tan thay vào đó là sức khỏe. Khi chúng ta có được
tâm hồn bình thản trong mọi trạng huống, có nghĩa những độc hại đã bị đẩy lui ra
khỏi tâm trí và thân thể là khi ấy chúng ta có được sự hòa hợp giữa thân và tâm,
và bệnh tật không còn nữa. Nói cách khác chúng ta có dũng cảm thay đổi cách
sống, lối nhìn về cuộc đời với con mắt tích cực, yêu thương tha thứ, năng vận
động thân thể, thay đổi cách dinh dưỡng ẩm thực toàn diện. Ðây chính là cuộc
cách mạng bản thân, và cũng theo đó mọi tế bào xấu, ung thối, chất độc sẽ từ từ
bị đào thải ra ngoài cơ thể, và một thân thể kiện khang, một tâm hồn trong sáng,
lành mạnh sẽ thành hình.
Lý tưởng của Y học đã được minh chứng qua lời
tuyên thệ Hippocratic oath từ 2500 năm qua là tôn trọng sự sống, phục vụ lợi ích
sức khỏe con người chứ không vì tư lợi, không dùng con người như vật thí nghiệm
Tinh thần này nói lên phần nào tư tưởng Phật giáo, mục đích tu tập theo Phật
giáo là để có sức khỏe trở thành Kim Cương Thân vì “Sức khỏe không chỉ làtrạng
thái không yếu đuối hay không bệnh tật mà còn là niềm hạnh phúc trọn vẹn mang
tính chất xã hội bao gồm tinh thần lẫn vật chất”